Nguyệt San Số 25


KHÓI LAM CHIỀU QUÊ TÔI
Tác giả: Dương Đại Trường
Thể loại: Bút ký   

       Xe chạy ngang qua cánh đồng dọc theo bờ sông Hậu Giang sau mùa gặt . Hành khách ngồi dãy ghế sau, ai đó chợt thốt lên, nhìn kìa khói lam chiều bốc lên từ thửa ruộng đằng xa trông đẹp quá! Tôi khẽ mở cửa nhìn ra ngoài, và nhờ bác tài cho xe chạy chậm lại để chiêm ngưởng trtước mắt tôi một buổi chiều đốt đồng trên quê hương sau mùa gặt. Hơn hai mươi năm đã đi qua, bồng bềnh nổi trôi nơi xứ người, chưa tìm được một hình ảnh êm đềm nào khác hơn của đồng quê làng tôi có khói lam chiều lan tỏa. Đã lâu lắm rồi tôi mới có dịp ngửi lại mùi khói rơm ấy, hình ảnh mỏng manh ấy. Chuyến đi vượt biển tìm tự do năm nào của tôi, cũng vào một chiều nhạt nắng, khi con tàu chầm chậm chạy trên dòng sông Hậu, xuôi biển cả bỏ lại quê hương ngày đó khuất dần trong không gian của hoàng hôn buông phủ! Thuở ấy, tôi ngồi trên mui ghe, nghe lòng nao nao, rưng rưng chia tay hình ảnh đã từ lâu còn đọng lại trong ký ức tôi, một quê hương hửu tình! Người nông dân đang đi trên bờ đê kia, tay ôm bó rơm nhóm lửa đốt rạ nhắc lại một thời xa lắc trong tôi, chập chùng kỷ niệm!
     Tuổi thơ tôi lớn lên nơi miền quê nghèo vùng đồng bằng bên bờ sông Hậu Giang hiền hòa có dòng nước trôi im lìm mang theo phù sa cho cánh đồng phì nhiêu màu mở. Tuổi thơ tôi không có những đồ chơi đẹp, đắt tiền. Quà ăn chỉ là những thứ bánh nhà quê rẻ tiền, vài cái bánh ú, dăm ba chiếc kẹo mỗi lần bà ngoại đi chợ về mới có , hay những chiều nướng khoai nướng sắn ngoài đồng bên làn khói rơm cay xè đôi mắt. Mùi khói rơm thơm lắm, quyện vào áo, vào tóc để dù đến nơi nào cũng vẫn còn vương vấn cái mùi thơm có cả nắng mưa, cả gió sương, cả mồ hôi của những người lao động, chẳng thể lẫn vào đâu được.
     Không những thế, mùi khói rơm còn len lỏi vào từng chiếc chiếu, từng chiếc mền trong phòng ngủ, để đêm về tỏa ra mùi dìu dịu khó quên. Ngày ấy, chưa có bếp than, bếp gas, bếp điện, microwave như bây giờ. Nhà nào khá giả thì đi mua củi gỗ về chất trong nhà củi để dành nấu quanh năm. Những nhà nghèo thì phần đông rơm nấu cơm bằng rơm. Hồi ấy, sau mỗi lần vào bếp, khuôn mặt chị em tôi lại lem nhem những vết lọ lem từ tro bếp, chị tôi lại khúc khích cười khi tưởng tượng mình giống như cô bé lọ lem trong truyện cổ tích. 
     Dọc theo sông Hậu Giang, từ đầu đến cuối làng san sát những căn nhà mái lá, trông yên bình, ấm cúng, xen lẫn những ngôi nhà ngói mộc mạc, bình dị, rồi lác đác vài mái nhà tranh vách đất. Từng mái nhà đều tỏa ra những làn khói mỏng manh nấu cơm mỗi chiều tà khi hoàng hôn tắt nắng. Khói bốc lên có khi thành từng đám ngùn ngụt, lại có lúc chỉ leo lét như sợi nhỏ mảnh mai vạch thành một đường cong giữa bầu trời lớn rộng rồi tan biến lúc nào chẳng biết. Điểm chung của tất cả chỉ giản đơn là một bếp lửa sum họp của những gia đình nông dân cuối ngày lao động vất vả. Và khói bếp trở thành một biểu tượng sự ấm no của mỗi gia đình.
      Tôi còn nhớ, cứ mỗi mùa thu hoạch, sau khi đập lúa xong, từng bó rơm được phơi khô rồi đánh thành những cây rơm để sau nhà hay ngoài vườn. Nhà nào cũng có những cây rơm cao ngất để cho tụi trẻ con leo lên mỗi lúc chơi cút bắt. Thậm chí, cả khi trưa hè oi ả, tụi trẻ con chúng tôi cũng ra đấy nằm vùi mình vào rơm mà ngủ ngon lành. Những đống rơm êm ái trở thành những người bạn thân thiết từ khi nào cũng chẳng biết.
     Rồi những chiều mùa cạn nước, chúng tôi thu gom những gốc rạ ngoài đồng, vun lại, ném vào đó những trái bắp, những củ khoai, củ sắn, những quả trứng bắt được ngoài ruộng và cùng quây thành vòng tròn đốt lửa. Lửa cháy phần phật, vàng rực như cũng muốn nhảy múa cùng niềm vui của những đứa trẻ nhà quê.
    Bao năm trôi qua, tôi cùng những đứa bạn lớn dần lên và hòa nhập vào cuộc sống thành thị, xa dần hương quê yêu mến chất chồng kỷ niệm. Nhưng dường như có điều gì đó khác lạ trong cuộc sống mới, bon chen và vội vàng ..Khác hẳn với ngày xưa, đằng sau làn khói lam chiều là những ngôi nhà tranh mái rơm, mái rạ, những cảnh nghèo khó nhưng ấm cúng lắm. Trong làn khói lam chiều ấy có tiếng cười vui rộn rã của trẻ dắt trâu về chuồng, có tiếng trò chuyện cười đùa ríu rít của bà con cô bác làm đồng sau một ngày lao động vất vả.
     Rời xa trường làng, xa dần những chiều chăn trâu đốt rơm rạ ngoài đồng, xa dần mái bếp đầy những bồ hóng của khói rơm rạ. Thỉnh thoảng  có những ngày về thăm nhà, mới lại thấy những đống rơm nơi góc vườn bốc lên một mùi ẩm mốc của đất. Những đống rơm đứng trơ trụi buồn thiu vì thiếu vắng tiếng cười của những đứa trẻ năm nào.
     Cuộc sống cứ hiện đại dần trên quê hương tôi . Tôi cũng đã rời xa quê hương bao năm miệt mài xứ người mưu sinh cuộc sống! Những mái nhà tranh, nhà ngói ở quê tôi được thay da đổi thịt bằng những ngôi nhà lầu cao ngất bằng bê tông cốt sắt.. Những chiếc kiềng ba chân dùng để nấu cơm bằng rơm cũng được cất vào một góc khuất mà chẳng mấy khi nhìn thấy. Những cây rơm phía sau nhà không còn nữa! Bây giờ, rơm sau mùa gặt được rải đều trên ruộng rồi đốt cháy làm phân và có tác dụng hạ phèn cho đất thâm canh. Người ta không còn dùng rơm và rạ nữa mà chuyển sang những loại nhiên liệu khác, sạch hơn, tiện dụng hơn.
     Bây giờ, hình ảnh khói lam chiều không còn bốc lên trên mái nhà ở khắp thôn cùng ngõ xóm mỗi buổi hoàng hôn về. Thậm chí, rơm rạ còn bị coi là thứ thừa thãi không dùng đến. Sau mỗi mùa vụ, người ta chỉ gom lại và đốt đi để chuẩn bị vào một mùa mới. Khói rơm bốc lên ngùn ngụt làm cay xè mắt những người qua lại trên đường quê , làm nao nao lòng những kẻ còn nhớ về một thời đốt rạ trên đồng với bạn bè cùng trang lứa tuổi. Và khói lam chiều cũng không còn là biểu tượng cho sự no ấm, sự ấm cúng của mỗi gia đình nữa. Cuộc sống ngày một thay đổi nhanh quá, chỉ có những ký ức  xưa vẫn vẹn nguyên trong lòng người có tuổi thơ chan chứa kỷ niệm miền quê thôn dã.
     Thế nên, bất chợt chiều nay, bắt gặp làn khói mỏng manh cất lên từ những cánh đồng ven sông kia, tôi bỗng nhiên cảm thấy vừa xa lạ và vừa thân quen biết mấy! Cứ như thể một người bạn tri kỷ đã lâu quá rồi không được gặp nhau. Nay dù chỉ trong thoáng chốc cũng đủ làm sống dậy những ngày thân thiết của quá khứ năm nào.
     Thế mới biết, cuộc sống ngày một thay đổi nhanh quá, chỉ có những ký ức  xưa vẫn vẹn nguyên. Khói lam chiều vẫn cứ còn lại, bùi ngùi, mong manh một vệt trong tâm thức. Là một thời nghèo khó nhưng rất đỗi yên ả, thanh bình. Là gia đình yêu thương sau lũy tre làng xanh rì bao quanh thôn xóm, ngần ấy là những ngày thơ êm đềm nơi miền quê thôn dã. Là chị, là anh, là bạn đồng niên, là những chiều lùa trâu về chuồng tiếng kêu nghé ngọ . Là cả một khoảng yêu thương đã nằm sâu trong trái tim chẳng khi nào có thể mờ phai, dù sống tha hương nơi đất nước nào khác.
      Nhưng dường như có điều gì đó vẫn mãi bên đời ...Ngày xưa, đằng sau làn khói lam chiều là những ngôi nhà tranh mái rơm, mái rạ, những cảnh nghèo khó nhưng ấm cúng lắm. Trong làn khói lam chiều ấy có tiếng cười vui rộn rã của trẻ dắt trâu về, có tiếng trò chuyện cười đùa ríu rít của bà con cô bác làm đồng sau một ngày lao động vất vả.
     Ngày nay, còn đâu những làn khói lam chiều. Chỉ thấy những ngôi nhà cao tầng. Cuộc sống tấp nập hối hả đến nỗi người ta đi ngang qua nhau cũng không kịp để lại một câu chào, một lời hỏi thăm, có chăng chỉ là cái gật đầu thật khẽ mà nếu không chú ý có thể sẽ chẳng nhận ra.
       Xe chạy vun vút trên đường, xa dần làng quê tôi, cánh đồng lúa vẫn im lìm bên giòng sông Hậu Giang, để lại phía sau một khoảng trời rộng cho kỷ niệm trở về ngổn ngang trong tâm khảm. Mùi khói lam chiều hôm nay thơm ngai ngái pha chút dịu ngọt, thấm vào lòng người lữ khách về thăm lại làng xưa . Bất chợt, tôi thấy sống mũi mình cay cay, và màu khói cứ xa dần, khuất dần, nhạt nhòa dần chẳng biết đến khi nào mới có thể gặp lại hình ảnh thân thương của khói đốt đồng sau mùa gặt.!!!