Nguyệt San Số 3
.......Phát hành tháng 7/2010 .........


LTS:
Hoàng Cầm là thi sĩ mà giới yêu thích thơ đều ngưỡng mộ ông. Chúng ta cũng có thể cho ông là một người đầu thai lầm thế kỷ! Vì thơ của ông đã vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ, cho nên ông đã bị nhà nước Cộng Sản Hà Nội kết tội trong vụ án NHân Văn Giai Phẩm! Hôm nay, thi sĩ Hoàng Cầm đã vĩnh biệt cỏi đời nầy, nhưng linh hồn thơ của ông vẫn mãi mãi còn trong lòng của giới yêu thơ. Tôi là một điển hình của người yêu thơ Hoàng Cầm. Tôi yêu thơ của ông chỉ có một phần, nhưng yêu kính con người của ông đến chín....Điều kính mến nhất đó là sĩ khí của một nhà thơ sống dưới chế độ độc tài Đảng Trị, nhưng không phục tùng để hưởng vinh hoa phú quý. Hoàng Cầm không như Tố Hửu, Huy Cận...những thi sĩ bồi bút. Hồi còn học lớp Đệ Nhị ( lớp 11 bây giờ ), tôi làm thuyết trình bài thơ Bên Kia Sông Đuống được cô giáo dạy văn cho đến điểm 20/20. Hôm nay, tôi đăng bài thơ Bên Kia Sông Đuống trên Nguyệt San của trang Web Nông Gia, như một nén hương tiễn thi sĩ Hoàng Cầm về bên kia thế giới: Một thế giới không có hận thù, không có trù dập, không có bóp nghẹt Tự Do.
.....V.T......

Hoàng Cầm
Thi sĩ Hoàng Cầm lúc về chiều

Bên Kia sông Đuống

Hoàng Cầm

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?

Hé một cánh liếp
-- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
-- Việt Bắc, tháng 4, 1948

Nguyên Hình Ảo Vọng

Khi lửa khói tàn đêm
dòng sông êm ái
Tôi lại gặp em
tưởng tháng năm dài chững lại
Em vẫn thế… thon cây mềm trái
tóc hong chiều còn óng tuổi mơ xanh
Sao mắt em cứ nhìn mê mải
về một phương trời…
- Có phải đấy phương anh
Có phải sắc đời miên man tơ dệt liễu mành
hay thời gian cũng đa tình đến thế
không muốn trôi trên mặt em diễm lệ
vun vút quay vòng
Em vẫn đợi
Nguyên trinh.
Theo dõi một phương trời…
- Có phải đấy phương anh?
Tôi huyễn tưởng hay em là ảo tưởng
Tôi vu vơ hoa?
Hay em liệng xuống
để sớm nay trao cánh thiếp hồng
- Vâng. Đêm rằm…
Anh có về dự cưới em không?
Hoàng Cầm

Xa
 ** LTS: Bài thơ nầy Hoàng Cầm làm cho bà vợ khi từ giả cỏi đời
Lời thơ rất thắm thiết tiễn đưa người vợ tên Yến.

Chim gì lảnh lót dãy tường rêu
Bấy nhiêu lá úa rơi ngơ ngác…
Em đâu? Ai xé hồn muôn mảnh
Tiếng mối tường bên xé tiếng mưa…
Đêm đêm hương khói, ngày không nói
Trang giấy vùng âm đắp ẩm êm..

Thi sĩ Phùng Quán :

LTS: Nhân dịp đăng những bài thơ của thi sĩ Hoàng Cầm, tôi xin đăng bài thơ Cây Chổi của thi sĩ Phùng Quán. Phùng quán cũng là một nạn nhân trong vụ án Nhân Văn Giải Phẩm của chếđộ CS Hà Nội.

***Cây Chổi
 
Ta đã đi qua
Những xóm làng chiến-tranh vừa chấm dứt:
Tôi đã gặp
Những bà mẹ già quấn dẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo giây thép gai tay máu chảy ròng
Bới đồn giặc trồng ngô tỉa lúa
Tôi đã gặp
Những cô gái trồng bông
Hai mươỉ ba mươỉ
Tôi không nhìn ra nữa
Mồ hôi sôi trên lưng
Mặt trời như mỏ hàn xì lửa
Đốt đôi vai cháy hồng.
Tôi đã đi qua
Những xóm làng vùng Kiến-an Hồng-quảng
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.
Tôi đã gặp
Những đứa em còm cõi
Lên năm, lên sáu tuổi đầụ
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mong đến Tết
Để được ăn cơm no có thịt
Một bữa một ngày" ...
Tôi đã đi giữa Hà-nội
Giữa Hà-nội những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm.
Tôi đã gặp
Chị em công-nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần,
Quần xăn quá gối,
Run lẩy bẩy chun vào hầm xí tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác.
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con.
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của quần chúng anh hùng lao-động
Đang buộc bụng thắt lưng để sống.
Để dựng xây kiến thiết nước nhà,
Để yêu thương nuôi nấng chúng ta
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm từ bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa,
Những vần thơ xanh đỏ sáng lòa,
Như giấy trang kim
Dán lên quân trang.
Đẫm mồ hôi và máu tươi của cách-mạng.
Như công nhân
Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả !
Các đồng-chí ơi !
Tôi không nói quá
Về Nam-Định mà xem
Đài xem lễ, họ cao hứng dựng lên (1)
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở
Mười lăm triệu đồng dầm mưa dãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách-mạng !
Nghe gió thâu đêm xuốt sáng
Nhớ "đài xem lễ" tôi xót bao nhiêu
Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo
Đêm nay thiếu cơm thiếu áọ
Những tên quan liêu Đảng đã phê-bình trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết, ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy
Khắp mặt đất như ruồi nhặng
ở đâu cũng có !
Đảng muốn phê bình tất cả
Phải một nghìn số báo Nhân Dân !
Tôi đã đến thăm nhiều hố xí cầu tiêu
Giấy trắng nửa mặt, xé toang chùi đít.
Những người này không bao giờ biết
ở làng quê con cái nhân dân ta
Rọc lá chuối non đóng vở học i-tờ !
Tôi đã dự những phiên tòa
Họp xuốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc quần áo bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đóị
Những mẹ già em trai, chị gái
Còng lưng, rỏ máu lấn vành đai !
Trung ương Đảng ơi !
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội trừ diệt
---- Có tôi

đi trong hàng ngũ tiền phong.

***Lời Mẹ Dặn

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
---- Con ơi ------
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
---- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
--- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
--- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không ! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vờị
In lên vết son đỏ chóị
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Phùng Quán 1957

Thơ Nguyễn Triều Anh Tâm

***mùa hè năm nay

Người đàn bà Tây âu yếm dẫn con chó lông xù
đi vào thẩm mỹ viện

để làm đẹp cho con vật thân yêu
em vẫn lo chăm sóc cho dung nhan
đã bắt đầu võ vàng
để làm đẹp cho tình yêu ta,
và bao nhiêu người tình đã qua, sắp tới…?

Thấm thoát đã bảy năm qua,
em rao bán môi cười bên chợ đời nghiêng ngã
cơn bịnh ung thư với người chồng già
và những con chó dễ thương
Làm sao đo lường được ngày tháng long đong
khi tóc chưa dài đủ nửa đời son phấn….?!

Mùa hè năm nay khí hậu dị thường,
có cháy rừng, có tuyết rơi, và bão lụt…
người ta đổ lỗi cho đất trời thay đổi
một cõi vô thường,
như lòng dạ em đổi thay,
khi mưa, khi nắng…

Mình đã bao nhiêu lần tạn mặt nhau,
sao bây giờ em xa lánh?
Người đàn bà Tây
và con chó lông xù được đi thẩm mỹ viện!
Em cũng đi làm sắc đẹp,
cho đời thương yêu,
cho vết nhăn được che giấu trên da mặt,
cho môi son tô thắm nụ cười,
cho vi trùng ung thư không còn gậm nhấm
Cái vú sữa năm nào nuôi tình yêu ta!
Năm nay khí hậu dị thường
muà hè sao có cháy rừng và tuyết phủ!

                            nguyễntriềuanhtâm
                                  Adelaide: 3/ 2010

 
***Ta không áo gấm về làng

Ta không áo gấm về làng
Không mơ võng lộng, không màng kiệu hoa.
Nhìn em nước mắt xót xa,
Truân chuyên một gánh, phồn hoa lụy đời.
Nhìn em gượng-gạo tiếng cười,
Đa-đoan trăm nỗi, chín mười so-đo.
Ở đây miệng thế chua-ngoa,
Tình đem rao bán, tiền cho môi cười...
 Ngôi nhà xưa nhỏ đâu rồi?
Ngôi trường xưa cũ một thời vàng son!
Đếm tay thân phận hao mòn,
Công hầu khanh tướng chỉ còn giấc mơ...
Ta đi, ta đến, bơ-vơ,
Thấy đời xa lạ, ngẫn ngơ nỗi mình....

     nguyễntriềuanhtâm
       
***nghiệp chướng đa-đoan

Bỗng dưng trời đất hoang mang
Ngựa xe điên đảo thế gian quay cuồng
Ta nhìn ngắm cảnh tang thương
Một trăm năm nữa cũng còn biển dâu
Em tu sao chẵng cạo đầu?
Nữa đời hương phấn, dãy dầu hồng nhan!
Em còn nghiệp chướng đa-đoan
Vô thường một cõi, mưu toan làm gì
Mình ta với mối tình si
Hết đông rồi hạ phân bì với ai?

            nguyễntriềuanhtâm
Adelaide:9/ 2009